Động cơ VTEC bao gồm 4 van tại mỗi xi-lanh: 2 van nạp và 2 van xả. Tốc độ vòng quay của động cơ sẽ quyết định việc chuyển đổi giữa cam cao (được tối ưu hóa cho động cơ hoạt động ở tốc độ vòng quay cao) và cam thấp (khi động cơ hoạt động với tốc độ thấp).
Ở tốc độ vòng quay thấp, một trong hai van nạp được mở vừa đủ trong khi van còn lại hoạt động ở chế độ cam thấp. Khi tốc độ nạp khí tăng lên, dòng khí xoáy được sinh ra trong xi lanh, nâng cao sự hòa trộn khí và nguyên liệu giúp cho việc đốt hỗn hợp này hiệu quả hơn. Nhờ đó, giảm thiểu lượng khí CO2 thoát ra. Đồng thời với việc giảm thiểu lượng nhiên liệu tiêu thụ, động cơ vẫn tạo ra mô-men xoắn lớn đáp ứng tốt cho điều kiện lái xe thông thường..
Ở tốc độ vòng quay lớn, 2 van hút khí hoạt động hết công suất và động cơ chuyển sang trục cam kích thước lớn. Thời gian đóng mở của van hút khí được cài đặt ở mức tối đa, tạo nên hiệu suất khí vào tối ưu và sức vận hành mạnh mẽ.
Việc chuyển đổi giữa chế độ cam thấp và chế độ cam cao được thực hiện bằng cách sử dụng dòng dầu để điều khiển chốt cò mổ giúp liên kết hoặc tách riêng các cò mổ với nhau. ECU (bộ điều khiển điện tử) nhận biết và theo dõi sự biến thiên của tốc độ động cơ, tải động cơ, tốc độ xe và nhiệt độ nước, để từ đó gửi các mệnh lệnh thích hợp.
Khi động cơ hoạt động ở tốc độ thấp, trục liên kết được nhả ra giúp tách kết nối giữa chốt cò giữa và các chốt cò còn lại. Hệ thống van xả và nạp được vận hành bởi trục cam thấp ở phía ngoài cho độ mở của hệ thống van thấp
Ở chế độ hoạt động ở tốc độ cao, áp lực dầu được tăng lên đẩy chốt liên kết, giúp kết nối chốt cò giữa với các chốt còn lại. Hệ thống van được điều khiển bởi trục cam cao ở giữa cho đô mở của hệ thống van cao.